Lần đầu tiên tôi biết đến Trà đạo Nhật Bản khi được mời tham dự lễ hiến trà do GS. Trà đạo Suzuki Sokaku chủ trì trong lễ khởi công trùng tu di tích Hữu Tùng Tự ở lăng Minh Mạng. Hôm đó là ngày 4.8.1996, thời tiết thật đẹp, bầu trời xanh trong như sắc áo kimono của cô Suzuki Sumiko, trợ giảng của GS. Suzuki, người chuẩn bị trà thất cho lễ hiến trà. Trà thất là một gian của Hiển Ðức Môn, cửa chính dẫn vào nơi thờ vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân hoàng hậu, được dàn dựng theo phong cách Nhật. Trên những chiếc chiếu hoa trải kín mặt nền thay cho chiếu tatami trong các trà thất Nhật Bản, Suzuki Sumiko bày biện các dụng cụ dùng trong nghi lễ hiến trà. Có đến 12 vật dụng khác nhau, như: bếp lò, siêu nước, bình trà, chén trà, đỉnh trầm, hộp trà, thìa trà… được bày trên một chiếc tràng kỷ xinh xắn. GS. Suzuki lau những dụng cụ ấy bằng một chiếc khăn màu trắng với một sự kính cẩn và nghiêm trang đến lạ lùng. Ðộng tác của ông tỉ mẩn, chuẩn xác và đầy vẻ huyền bí. Bộ kimono màu đen trên người ông cùng với làn khói trầm vừa được nhóm lên đã tạo nên một cảnh sắc thành kính và thiêng liêng. Bên trong điện Sùng Ân, sáu phụ nữ Nhật vận kimono đủ các sắc màu đang tất bật chuẩn bị cho cuộc tiếp trà, với một không khí khẩn trương nhưng trang trọng và nhẹ nhàng.
Sau lời khai mạc của Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, lễ hiến trà được bắt đầu. GS. Suzuki Sokaku dâng trầm lên án thờ vua Minh Mạng trong điện Sùng Ân và các án thờ trong Hữu Tùng Tự. Đoạn, ông quay trở lại trà thất bắt đầu lễ hiến trà. Với sự trợ giúp của cô Suzuki Sumiko, ông tiến hành nghi thức pha trà một cách kính cẩn, đầy thành tâm và chính xác như một điệu múa: từ việc tung chiếc khăn tím để lau chén trà, tráng nước sôi, đến việc cho trà vào chén, pha nước sôi rồi khuấy nhẹ chén trà bằng chiếc “chổi” vót bằng cật tre.
Chén trà đầu tiên với sắc nước màu xanh lục được ông thành kính dâng lên bàn thờ vua Minh Mạng trong điện Sùng Ân. Chén thứ hai dâng lên bàn thờ các quan trong Hữu Tùng Tự. Những chén trà kế tiếp được Sumiko và các đồng môn đưa đi mời khách. Trà đạo thường sử dụng ba loại trà khác nhau, là đoàn trà (trà bánh, dùng để nấu); mạt trà (trà bột để khuấy với nước nóng) và yêm trà (còn gọi là tiễn trà, dùng để pha trong ấm với nước sôi). GS. Suzuki đã dùng mạt trà cho lễ hiến trà ở lăng Minh Mạng. Mỗi trà tượng [1] (khách tham dự lễ hiến trà) được mời một chén trà và hai chiếc bánh ngọt. Những chiếc bánh này được làm từ cố đô Kyoto. Một chiếc có hình dáng giống hai chiếc lá tùng màu xanh bắt chéo, tượng trưng cho hạnh phúc trường tồn; chiếc kia hình cái chuông màu vàng là biểu tượng của môn phái Omote Senke trong trà đạo Nhật Bản.
Theo đúng nghi thức, khách được mời trà, trước tiên phải cúi đầu cám ơn, rồi đón chén trà bằng lòng tay trái. Sau đó, họ phải dùng tay phải xoay chén trà theo chiều kim đồng hồ hai lần rồi mới nhấp một ngụm và dùng một ít bánh ngọt. Sau nghi thức ấy, họ mới được uống cạn chén trà và ăn hết chỗ bánh còn lại.
Để những trà tượng [2] người Việt Nam có thể hiểu và thực hành đúng nghi thức Trà đạo Nhật Bản, GS. Suzuki Sokaku và các môn đệ của ông đã chuẩn bị sẵn những tờ hướng dẫn viết bằng tiếng Nhật và tiếng Anh, và còn cử người tận tình chỉ dẫn. Song dường như đa phần khách được mời trà đã không xem và nghe kỹ lời chỉ dẫn, nên họ chỉ chiêu một hơi là đã cạn chén trà.
Tháng 6.1997, tôi nhận được học bổng của chính phủ Nhật Bản sang Nhật tu nghiệp về bảo tàng học và khảo cổ học. Nhờ vậy, tôi có thêm nhiều cơ hội tham dự những cuộc Trà đạo tổ chức ở các jinza (thần xã), taisha (đại xã); otera (chùa); trong các trà thất nổi danh ở Shimane, Osaka, Kyoto… Không chỉ tham dự, tôi còn được mời tham gia lớp học và thực hành Trà đạo ở Hội Giao lưu Quốc tế Hamada; được Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Cổ đại Shimane mời về nhà riêng để thưởng trà nhân dịp Tết 1998. Tôi chứng kiến gần như đầy đủ các nghi thức: hiến trà, hành trà và thưởng trà của người Nhật. Đó là những cơ hội quý giá để tôi tìm hiểu và khám phá thế giới kỳ bí và quyến rũ của Trà đạo Nhật Bản.
Người Nhật quan niệm uống trà không chỉ để giải khát, mà là một thứ tôn giáo: Chado (trà đạo), tương tự Kendo (Kiếm đạo), Ikebana (Hoa đạo), Bushido (Võ sĩ đạo)… vậy. Người Nhật đầu tiên nâng việc uống trà trở thành một nghi lễ là Senno Rikyu (1521 – 1591). Senno Rikyu yêu cầu nghi lễ uống trà phải được tiến hành trong những phòng nhỏ, biệt lập và trang nghiêm. Ở đó, nhu cầu uống trà gắn liền với nhu cầu nghệ thuật, đòi hỏi cả chủ và khách đều phải có vốn kiến thức nhất định về thơ ca, hội họa, văn học cổ điển, nghệ thuật cắm hoa, các nghề thủ công khác nhau và lòng hiếu khách. Nghi lễ uống trà của Senno Rikyu đã tồn tại trong một thế giới vi mô, nơi mà người ta không để ý đến tiền tài và địa vị, mà chỉ coi trọng kiến thức, sự thanh nhã và phép lịch thiệp. Senno Rikyu có nhiều con và Omote Senke là con trai trưởng. Sau này, con cháu của ông đã lập ra nhiều môn phái Trà đạo khác nhau nhưng nổi tiếng nhất là ba môn phái: Omote Senke, Ura Senke và Mushakooji Senke. Tác phong và nghi thức hành lễ của các môn phái này gần như nhau. Song điều làm nên sự khác biệt chính là thái độ của các môn phái đối với Trà đạo. Sự khác biệt đó thuộc về nội tâm và chỉ có những người nghiên cứu về Trà đạo hoặc các trà tượng [3] (người tham gia nghi lễ uống trà) mới có thể phân biệt được nhờ vào các biểu tượng của từng môn phái và nhờ vào sự chiêm cảm của họ.
Trong trước tác Trà đạo, tác giả Okakura Kakuzo, một trà sư [4] lừng danh của Nhật Bản đã viết: “Trà đạo là một tôn giáo lập ra để tôn sùng cái đẹp trong những công việc tầm thường của sinh hoạt hàng ngày. Nó là nghi thức của đức tinh khiết và sự hòa hợp; nó làm cho người ta cảm thấy sự huyền bí của lòng hổ tương nhân ái và ý nghĩa lãng mạn của trật tự xã hội”. Theo ông, triết lý của Trà đạo không phải chỉ là một chủ nghĩa thẩm mỹ đơn giản theo ý nghĩa thông thường của nó, vì triết lý này cùng với luận lý và tôn giáo biểu thị tất cả quan niệm của chúng ta về con người và tạo hóa. Nó là khoa vệ sinh vì nó bắt buộc phải tinh khiết. Nó là khoa kinh tế vì nó chứng tỏ rằng an lạc là do sự giản dị nhiều hơn là do ở sự phức tạp và tổn phí mà ra. Nó là một thứ kỷ hà học về tinh thần, vì nó minh định ý niệm về cân xứng của ta đối với vũ trụ. Cuối cùng, Trà đạo tiêu biểu cho tinh thần dân chủ thực sự của Á Đông, vì nó đã khiến cho tất cả những người tôn sùng Trà đạo trở thành những bậc thẩm mỹ quý phái. Tất cả những triết lý cao siêu đó chỉ bắt nguồn từ một điều rất đơn giản. Ðó là sự nghi thức hóa việc pha và mời khách uống một loại nước giải khát được pha chế từ bột chè xanh và nước sôi. Song từ cái đơn giản đã được nghi thức hóa đó lại chứa đựng cái hồn của một nền văn hóa đã sinh ra nó.
Trà đạo hướng con người đến lễ nghĩa, sự huyền nhiệm và thiêng liêng của cái đẹp. Cái đẹp đó là sự phối hợp của những cái đẹp tinh thần toát ra từ Thiền đạo, Hoa đạo, cách phục trang và lối ứng xử. Tất cả đã tạo nên Trà đạo. Richard L. Gage, một người Mỹ từng nghiên cứu về Trà đạo đã nhận xét trong một bài viết của mình: “Nghi lễ uống trà Nhật Bản mang nhiều đặc điểm rất giống với balê cổ điển của phương Tây. Cả hai đều phải tuân theo một cách nghiêm ngặt những nguyên tắc và quy định phức tạp của nó, cả hai đều là không thể tha thứ được nếu những nguyên tắc và quy định của nó không được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, và cả hai đều trở nên buồn tẻ đến ghê gớm nếu không có gì bổ sung vào việc thực hiện một cách tỉ mỉ những nguyên tắc và quy định ấy”.
Trà đạo còn tạo mối liên hệ giữa Nhật Bản với Việt Nam từ hơn 600 năm trước, thông qua những món gốm sứ Việt Nam dùng trong Trà đạo. Theo sách Trà hội ký, từ cuối thế kỷ XIV, người Nhật đã nhập đồ gốm Việt Nam để dùng trong các nghi thức hiến trà. Họ gọi những món đồ đó là Nanban Shimamono (nếu là đồ gốm) và An Nam (nếu là đồ sành sứ). Về sau, người ta đã phát hiện gốm sứ Việt Nam trong các di chỉ khảo cổ học ở Nhật Bản và trong các sưu tập tư nhân của các thế gia vọng tộc thời kỳ Mạc phủ. Những món đồ gốm sứ này được dùng trong nghi thức Trà đạo. Dựa vào kết quả giám định niên đại, các nhà khảo cổ học Nhật Bản như Tani Akira, Nishino Noriko… cho rằng gốm sứ Việt Nam du nhập vào Nhật Bản trải qua bốn thời kỳ: Thời kỳ thứ 1 là nửa sau thế kỷ XIV; thời kỳ thứ 2 là cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI; thời kỳ thứ 3 là cuối thế kỷ XVI và thời kỳ thứ 4 là nửa đầu thế kỷ XVII. Các thời kỳ đầu, người Nhật chỉ mua đồ gốm Việt Nam về làm vật dụng phụ trợ trong nghi lễ hiến trà như lọ hoa, lọ trà… Nhưng đến thời kỳ thứ 4 thì những món gốm sứ xuất xứ từ Việt Nam, tuy kỹ thuật tạo hình mang đặc trưng của gốm sứ Việt Nam đương thời, nhưng hình dáng và hoa văn trang trí lại được làm theo thẩm mỹ của trà nhân Nhật Bản. Vì thế, TS. Nishino Noriko cho rằng có nhiều khả năng vào nửa đầu thế kỷ XVII, người Nhật Bản đã trực tiếp sang Việt Nam chỉ đạo việc làm đồ gốm sứ đặt hàng theo mẫu mã do họ yêu cầu. Sử sách cũng ghi lại sự kiện một phụ nữ Nhật Bản tên là Chiyo (1671 – 1741), con gái của thương gia Wada Rizaemon, đã kết hôn với một thợ gốm ở Bát Tràng (Việt Nam). Điều này góp phần chứng minh rằng Wada Rizaemon là người trực tiếp buôn gốm sứ Việt Nam về bán cho người Nhật Bản. Nửa đầu thế kỷ XVII cũng là thời kỳ hoạt động của dòng thương mại shuinsen (châu ấn thuyền). Có khả năng gốm sứ An Nam của thế kỷ XVII được đưa sang Nhật Bản theo thuyền shuinsen và được quản lý chặt chẽ bởi các thương nhân Nhật Bản như Wada Rizaemon.
Chính nhờ Trà đạo mà người Nhật đã biết đến Việt Nam sớm hơn những gì ta tưởng. Vậy thì, một người Việt Nam như tôi bỏ chút thời gian để tìm hiểu Trà đạo, cũng là một cách “về nguồn” vậy. Không biết tôi nghĩ như thế có đúng không?
Trần Đức Anh Sơn
Tham luận
[1][2][3] – tác giả dùng từ “trà tượng” để chỉ khách dùng trà có lẽ chưa thực sự hợp lý. Trong cuốn Trà Đạo của Kakuzo do Bảo Sơn dịch dùng từ “trà tượng” chỉ các vị là biểu tượng cho trà đạo có lẽ là phù hợp hơn.
[4] – Kakuzo không là một trà sư, ông là nhà nghiên cứu Văn hóa Nhật Bản.